Epinephelus là danh pháp khoa học của một chi trong họ Cá mú (Serranidae). Chúng là các loài cá lớn sinh sống ngoài biển. Tên gọi chung của chúng là cá mú hay cá song. Các tên gọi này cũng chia sẻ với một vài chi khác, như Plectropomus.
Các loài
FishBase liệt kê 99 loài:
-
Epinephelus acanthistius (Gilbert, 1892).
-
Epinephelus adscensionis (Osbeck, 1765).
-
Epinephelus aeneus (Geoffroy Saint-Hilaire, 1817): Cá mú trắng
-
Epinephelus akaara (Temminck & Schlegel, 1842): Cá mú chấm đỏ hay cá mú Hồng Kông
-
Epinephelus albomarginatus Boulenger, 1903: Cá mú rìa trắng
-
Epinephelus amblycephalus (Bleeker, 1857): Cá mú chấm vạch[2]
-
Epinephelus analogus Gill, 1863: Cá mú đốm
-
Epinephelus andersoni Boulenger, 1903: Cá mú mặt mèo
-
Epinephelus areolatus (Forsskål, 1775): Cá mú bông, cá mú chấm hay cá song chấm[2]
-
Epinephelus awoara (Temminck & Schlegel, 1842): Cá song gió hay cá mú vàng[2]
-
Epinephelus bilobatus Randall & Allen, 1987: Cá mú hai đốm
-
Epinephelus bleekeri (Vaillant, 1878): Cá song dẹt, cá mú chấm đỏ[3] hay cá mú đuôi sẫm.
-
Epinephelus bontoides (Bleeker, 1855): Cá mú Palemargin
-
Epinephelus bruneus Bloch, 1793: Cá mú răng dài
-
Epinephelus caninus (Valenciennes, 1843): Cá mú răng chó
-
Epinephelus chabaudi (Castelnau, 1861): Cá mú râu
-
Epinephelus chlorocephalus (Valenciennes, 1830): Cá mú Tonga
-
Epinephelus chlorostigma (Valenciennes, 1828): Cá song chấm xanh, cá mú chấm hay cá mú đốm nâu
-
Epinephelus cifuentesi Lavenberg & Grove, 1993: Cá mú ôliu
-
Epinephelus clippertonensis Allen & Robertson, 1999: Cá mú Clipperton
-
Epinephelus coeruleopunctatus (Bloch, 1790): Cá song chấm trắng[3] hay cá mú đốm trắng
-
Epinephelus coioides (Hamilton, 1822): Cá mú đen chấm nâu, cá mú chấm gai hay cá mú đốm cam
-
Epinephelus corallicola (Valenciennes, 1828): Cá mú san hô
-
Epinephelus costae (Steindachner, 1878): Cá mú Goldblotch
-
Epinephelus cyanopodus (Richardson, 1846): Cá mú đốm lam
-
Epinephelus daemelii (Günther, 1876).
-
Epinephelus darwinensis Randall & Heemstra, 1991: Cá mú Darwin
-
Epinephelus diacanthus (Valenciennes, 1828): Cá mú má gai
-
Epinephelus drummondhayi Goode & Bean, 1878: Cá mú đốm nhỏ
-
Epinephelus epistictus (Temminck & Schlegel, 1842): Cá mú chấm đen, cá song chấm đen[4]
-
Epinephelus ergastularius Whitley, 1930: Cá song bảy sọc
-
Epinephelus erythrurus (Valenciennes, 1828): Cá mú mây
-
Epinephelus exsul (Fowler, 1944): Cá mú mười gai
-
Epinephelus fasciatomaculosus (Peters, 1865): Cá mú đá
-
Epinephelus fasciatus (Forsskål, 1775): Cá song sọc ngang đen[3]
-
Epinephelus faveatus (Valenciennes, 1828): Cá mú ngực sọc
-
Epinephelus flavocaeruleus (Lacépède, 1802): Cá mú lam vàng
-
Epinephelus flavolimbatus Poey, 1865: Cá mú gờ vàng
-
Epinephelus fuscoguttatus (Forsskål, 1775): Cá mú hoa nâu hay cá mú cọp
-
Epinephelus gabriellae Randall & Heemstra, 1991: Cá mú nhiều đốm
-
Epinephelus goreensis (Valenciennes, 1830): Cá mú Dungat
-
Epinephelus guttatus (Linnaeus, 1758): Cá mú đuôi đỏ
-
Epinephelus haifensis Ben-Tuvia, 1953: Cá mú Haifa
-
Epinephelus heniochus Fowler, 1904: Cá mú cương
-
Epinephelus hexagonatus (Forster, 1801): Cá mú đốm sao
-
Epinephelus howlandi (Günther, 1873): Cá mú yên đen
-
Epinephelus indistinctus Randall & Heemstra, 1991: Cá mú Somali
-
Epinephelus irroratus (Forster, 1801): Cá mú Marquesan
-
Epinephelus itajara (Lichtenstein, 1822): Cá mú khổng lồ
-
Epinephelus labriformis (Jenyns, 1840): Cá mú sao
-
Epinephelus lanceolatus (Bloch, 1790): Cá mú nghệ hay cá mú lớn
-
Epinephelus latifasciatus (Temminck & Schlegel, 1842): Cá mú sọc dọc[5]
-
Epinephelus lebretonianus (Hombron & Jacquinot, 1853): Cá mú Mystery
-
Epinephelus longispinis (Kner, 1864): Cá mú gai dài
-
Epinephelus macrospilos (Bleeker, 1855): Cá mú mũi khoằm
-
Epinephelus maculatus (Bloch, 1790): Cá mú vây cao
-
Epinephelus magniscuttis Postel, Fourmanoir & Guézé, 1963: Cá mú lốm đốm
-
Epinephelus malabaricus (Bloch & Schneider, 1801): Cá song điểm gai, cá mú điểm gai, cá mú đầu vị[5], cá mú đen, cá mú chấm đen, cá mú Malabar
-
Epinephelus marginatus (Lowe, 1834): Cá mú sẫm màu
-
Epinephelus melanostigma Schultz, 1953: Cá mú một nhọt
-
Epinephelus merra Bloch, 1793: Cá mú lỗ tổ ong
-
Epinephelus miliaris (Valenciennes, 1830): Cá mú vây lưới
-
Epinephelus morio (Valenciennes, 1828): Cá mú đỏ
-
Epinephelus morrhua (Valenciennes, 1833): Cá mú Comet
-
Epinephelus multinotatus (Peters, 1876): Cá mú nhọt trắng
-
Epinephelus mystacinus (Poey, 1852): Cá mú Misty
-
Epinephelus nigritus (Holbrook, 1855): Cá mú đen, cá mú Warsaw
-
Epinephelus niphobles Gilbert & Starks, 1897: Cá mú núm sao
-
Epinephelus niveatus (Valenciennes, 1828): Cá mú tuyết
-
Epinephelus octofasciatus Griffin, 1926: Cá mú tám sọc
-
Epinephelus ongus (Bloch, 1790): Cá mú sọc trắng
-
Epinephelus perplexus Randall, Hoese & Last, 1991: Cá mú Puzzling
-
Epinephelus poecilonotus (Temminck & Schlegel, 1842): Cá mú chấm vạch
-
Epinephelus polylepis Randall & Heemstra, 1991: Cá mú vảy nhỏ
-
Epinephelus polyphekadion (Bleeker, 1849): Cá mú ngụy trang
-
Epinephelus polystigma (Bleeker, 1853): Cá mú chấm trắng
-
Epinephelus posteli Fourmanoir & Crosnier, 1964: Cá mú vây sọc
-
Epinephelus quernus Seale, 1901: Cá mú Hawaii
-
Epinephelus quinquefasciatus, (Lichtenstein, 1822): Cá mú khổng lồ Thái Bình Dương
-
Epinephelus quoyanus (Valenciennes, 1830): Cá mú đá, cá song đá[5], hay cá mú vây dài
-
Epinephelus radiatus (Day, 1868): Cá mú sọc xiên
-
Epinephelus retouti Bleeker, 1868: Cá mú đầu đỏ
-
Epinephelus rivulatus (Valenciennes, 1830): Cá mú Halfmoon
-
Epinephelus septemfasciatus (Thunberg, 1793): Cá mú Convict
-
Epinephelus sexfasciatus (Valenciennes, 1828): Cá song sáu sọc[5]
-
Epinephelus socialis (Günther, 1873): Cá mú sóng
-
Epinephelus spilotoceps Schultz, 1953: Cá mú bốn yên
-
Epinephelus stictus Randall & Allen, 1987: Cá mú đốm đen
-
Epinephelus stoliczkae (Day, 1875): Cá mú Epaulet
-
Epinephelus striatus (Bloch, 1792): Cá mú Nassau
-
Epinephelus suborbitalis Amaoka & Randall, 1990: Cá mú Seamount
-
Epinephelus summana (Forsskål, 1775): Cá mú mép đen[6] hay cá mú Summan
-
Epinephelus tauvina (Forsskål, 1775): Cá song mỡ hay cá mú mỡ[6]
-
Epinephelus timorensis Randall & Allen, 1987: Cá mú đốm vàng
-
Epinephelus trimaculatus (Valenciennes, 1828): Cá mú sao[3] hay cá mú ba đốm
-
Epinephelus trophis Randall & Allen, 1987: Cá mú Plump
-
Epinephelus tuamotuensis Fourmanoir, 1971: Cá mú mắt lưới
-
Epinephelus tukula Morgans, 1959: Cá mú Potato
-
Epinephelus undulatostriatus (Peters, 1866): Cá mú Maori
-
Epinephelus undulosus (Quoy & Gaimard, 1824): Cá mú vạch sóng
Tại Việt Nam
Các loài cá trong chi này được nuôi khá phổ biến tại Việt Nam. Ba loài cá đang được ưu tiên nuôi gồm có:
-
E. malabaricus (cá mú đen)
-
E. akaara (cá mú chấm đỏ)
-
E. fuscoguttatus (cá mú chấm hoa nâu)
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. Trong đó loài cá có giá trị kinh tế nhất là cá mú chấm đỏ vì thịt chắc và thơm ngon hơn 2 loài còn lại. Tuy nhiên thời gian nuôi để đạt được cùng trọng lượng mất gấp đôi so với cá mú đen và cá mú chấm hoa nâu. Ngoài ra việc sản xuất giống loài cá này cũng đang gặp nhiều khó khăn hơn hai loài còn lại.
Cá mú đen và cá mú chấm hoa nâu đang được nuôi phổ biến tại vùng duyên hải miền Trung và miền Nam Việt Nam. Giống hai loài cá này hiện nay chủ yếu được nhập khẩu từ các nước như Indonesia, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan v.v. Ở Việt Nam tại Viện NCNTTS III (Nha Trang) cũng đang thử nghiệm sản xuất giống, tuy nhiên sản lượng giống sản xuất ra chưa đáp ứng được nhu cầu của người nuôi. Riêng cá mú chấm đỏ lại được ưa chuộng nuôi tại vùng biển phía Bắc (các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng)
Cá mú có giá trị kinh tế rất cao. Giá thị trường hiện nay đối với loài cá mú đen và cá mú chấm hoa nâu là 200.000-300.000 đồng/kg đối với cá có kích cỡ từ 800 g - 1 kg. Cá mú chấm đỏ giá 400.000-500.000 đồng/kg.
Cá mú hiện nay chủ yếu được nuôi bè trên biển chỉ một số ít nuôi ao) nên phần lớn vấn giữ được tính chất "tự nhiên" của thịt hải sản rặng san hô.
Vùng nuôi cá mú hiện nay ở Việt Nam tập trung ở các vùng biển Quảng Ninh, Hải Phòng, Phú Yên, Khánh Hoà (Nha Trang, Vạn Giã, Cam Ranh), Bình Thuận (huyện đảo Phú Quý), Kiên Giang (huyện đảo Phú Quốc) vv...
Món cá mú dễ ăn và được yêu thích nhất là cá mú hấp. Ngoài ra còn có thể chế biến thành lẩu cá mú, chiên, sốt, cá mú ăn mù tạt (susimi) cũng rất hấp dẫn. Thịt cá mú chắc, ngọt và thơm ăn vào sẽ cảm nhận được hương vị của biển cả.
Chú thích
-
^ Sepkoski, Jack (2002). “A compendium of fossil marine animal genera”. Bulletins of American Paleontology 364: trang 560. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2008.
- ^ a ă â Thái Thanh Dương (chủ biên), Các loài cá thường gặp ở Việt Nam, Bộ Thủy sản, Hà Nội, 2007. Tr.18.
- ^ a ă â b Thái Thanh Dương (chủ biên), Các loài cá thường gặp ở Việt Nam, Bộ Thủy sản, Hà Nội, 2007. Tr.19.
-
^ Thái Thanh Dương (chủ biên), Các loài cá thường gặp ở Việt Nam, Bộ Thủy sản, Hà Nội, 2007. Tr.17.
- ^ a ă â b Thái Thanh Dương (chủ biên), Các loài cá thường gặp ở Việt Nam, Bộ Thủy sản, Hà Nội, 2007. Tr.20.
- ^ a ă Thái Thanh Dương (chủ biên), Các loài cá thường gặp ở Việt Nam, Bộ Thủy sản, Hà Nội, 2007. Tr.21.
Tham khảo
Wikispecies có thông tin sinh học về
Epinephelus Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về
Epinephelus